MỘT KIẾP ĐẦU THAI

Gọi tên con gái đến lần thứ ba trong hương khói mù mịt, Thông như sụm người bên nấm mộ chưa xanh cỏ với nhiều vòng hoa trắng đã héo rụi. Tấm thân lực lưỡng rung lên trong những tiếng nấc quả không tương thích chút nào với dáng vẻ võ biền, nếu như không bỗng nhiên để lộ ra những múi mỡ đã tới thời kỳ chảy xệ ra trên cằm, dưới bụng khiến người ta phải thương hại...     Hồi lâu như thế, khi tiếng chuông chùa thu không lơ lửng, Thông mới gượng đứng dậy, đi thất thểu vào làng.    Nhiều năm qua, Thông không về quê. Chỉ có đận này, hoẵng đứa con gái yêu dại dột vắn số, ông mới có dịp thong thả thăm thú họ hàng xa, gặp gỡ đôi người bạn cũ thời ngất ngư lưng trâu la hét khản cổ. Những lúc đó, ông xuất hiện như một ông Thiện đồ sộ ngoài chùa, nén nỗi đau riêng giãi bày mối quan tâm đến sinh hoạt mọi mặt của cố hương- hẳn nhiên là đặc biệt chuyên chú tới lĩnh vực văn hóa làng xã, do thói quen nghề nghiệp... Một cách lần lượt, theo đúng quy trình, ông đi từ thư ký Ủy ban lên Vụ trưởng, rồi Thứ trưởng của một Bộ nắm giữ cả vong hồn lẫn hình thái văn hóa của toàn tầng lớp. Ông chẳng về quê, bởi mối dây liên tưởng còn rất ít ỏi, nếu không muốn nói là chẳng còn gì - ngoài họ mạc bắn canon mới tới. Mồ mả cụ kỵ, ông bà, bác mẹ, ông đã dầy công quy tập về một công viên vĩnh hằng qua cách Thủ đô chưa đầy 40 phút xe du lịch đời mới. Ông đưa xác con gái về quê là theo lời trăng trối bằng di bút của nó. Nhớ đến di bút con gái, ông lại tối xầm mày mặt. Ông muốn quên đi, mà mỗi ngày chúng như càng in hằn trong tâm khảm mỏi mệt và hoảng loạn của ông. Và điều tai quái nhất là, cái quang cảnh quê hương dường đã mờ mịt sương khói trong ông chẳng hiểu sao bỗng đựơc "vén mây giữa trời", như đựơc tắm gội bằng một thứ ánh sáng mới lạ ông chưa từng biết tới, kể cả trong thời thư...    Mấy hôm trước, đi theo đám tang con gái có cả một đội quân nhạc do ông mời về, khi diễu qua cổng chùa, ông chợt thấy ớn lạnh khắp người, và một luồng ánh sáng ký ức chộp xuống tựa tia chớp - lúc ông thoáng thấy đối diện chùa là một ngôi nhà cổ, ngoài cổng nằm tĩnh lặng một con chó đá cũ. dường như, tự thuở nào, kiếp nào xa xăm lắm, đã có một ai nói cho ông nghe về con chó đá này... Ông nghĩ suốt từ đấy ra tới nghĩa trang. Về tới Hà Nội cũng vắt tay lên trán nghĩ cả đêm. Nghĩ mãi không ra.    bữa nay về quê, sau khi rời mộ con gái, Thông lại đi tới ngôi nhà nọ, như một thôi thúc bí mật không sao cưỡng nổi. Trong ánh chiều tà của làng quê nghèo, khi nỗi thương xót con chưa dịu lại, lần trước hết trong đời ông thấu hiểu thế nào sự đơn chiếc và lặng yên của kiếp người. Bên con chó đá đôn hậu sứt sẹo phơi mưa nắng tự bao giờ đương nhắm nháp cái ánh sáng mờ mờ nhân ảnh phủ khắp thân mình, ông chợt nhớ lại rõ mồn một giọng khê nồng thuốc lào của một người đàn ông: "Nếu cực chẳng đã mà có con đường đâm thẳng vào nhà, năng có đền chùa ở trước nhà, thì cần phải chôn ở trước nhà một con chó đá, hoặc treo một cái gương ở trên cửa chính để yểm tà khí, một học giả nước ta đã dạy thế đấy!" Những ánh chớp lóe sáng tựa đèn Flah của cánh nhà báo những lần ông tới hội nghị cùng Bộ trưởng hay một yếu nhân nào đó. Trước mắt Thông hiện lên dần một người đàn ông khắc khổ dáng nhà nho. Ông ta xoa đầu con mực nằm khoanh bên cạnh mình và tâm can như với một người bạn: "Mi chỉ coi được phần dương thôi, muốn canh phòng phần âm thì ta phải ''nuôi'' chó đá, hiểu chưa?" Ngôi nhà ba gian có tường đá ong bao quanh, có cánh cửa bức bàn sao mà quen thuộc, thân thương thế! Cả dãy hàng hiên chạy suốt mặt tiền nữa, ở đó có mắc chiếc võng, trên đó, người đàn ông thường nằm đọc sách và ngâm nga những câu thơ của chính mình, bên cạnh là con mực nằm ngoan ngoãn. Trong căn buồng tăm tối chất đầy sách, có hai cọc sách dày bằng giấy bản toàn chữ Nho. Có lần người đàn ông lấy ra một cuốn sách, phủ nhẹ bụi khiến con mực lúc nào cũng cuốn chân ông phải thở phì và hộc khẽ lên một tiếng như trách yêu chủ. Ông chủ biết ý, xoa đầu nó: "Thôi nào, tao xin lỗi". Nó từng chứng kiến ông chủ thắp hương thành kính, rồi cầm một cuốn sách giấy bản ố vàng ấp lên ngực khấn khứa: "Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều...". Qua những lời trò chuyện của con cái ông chủ với hàng xóm, mực biết rõ lai lịch ông: ông từng tham gia quân nhân huyện, bị thương, khi hòa bình lập lại, ông được đi an dưỡng, rồi chuyển ngành đi học trường HTX mua bán Trung ương. Đang học thì ông bị gọi về trong cuộc "Chỉnh đốn tổ chức và canh tân ruộng rẫy" động địa kinh thiên, bị giam lỏng tại đình để viết kiểm thảo về tội: tham dự Quốc dân đảng, gia đình thành phần bóc lột. Xét cho cùng, ông chủ vẫn còn hơn ối người bị oan sai khác: bị con đấu tố, bị đập đầu vào tường, bị đạn Muscơtông bắn phọt óc!... Những ngày đó, mực hay chạy tới đình, ghé mắt qua chấn song gỗ tròn nhẵn bóng để nhìn trộm ông chủ thân thương. Còn tới đêm, nhớ ông chủ, nó lại ra cổng, đứng cạnh con chó đá để sủa lên những tiếng thê thiết như chó con lạc mẹ. Có khi, nó đứng đối diện với con chó đá để sủa, như sủa thi với tiếng kêu lặng im mơ hồ bị tru di tự thuở nào của chó đá...    Đến khi được thân oan, ông chủ được cử đi làm thuê tác sửa sai. Mực đã nghe ông ngâm một mình những bài thơ hồi bị giam lỏng, sau khi trải qua những năm tháng bị giặc khủng bố, tề hành hạ:          ...Một mình trăn trở canh chầy           Nào ai có thấu lòng này oan ức           Nằm đây trải mấy tháng liền           Nỗi lòng ai thấu ưu phiền chua cay...          ...Gậy mình đập trúng lưng mình           Đem tình giai cấp ra tình thù ta           Cũng nhiều kẻ thừa cơ hám lợi           Đẩy người ngay vào tội bất trung           Đất bằng nổi sóng đùng đùng           Nghiến răng cam chịu nỗi lòng oan khiên           Vì cao quá nên trên chẳng biết           Những kẻ gần cố níu làm sai...    Ông còn làm cả thơ chữ Hán, đọc sang sảng rung màng nhện:          Thập niên kháng chiến kỷ công lao           cách tân trung truy hóa địch tào           Ư trung oan khuất thùy năng thức           Duy hữu vì nhân tại vô thượng     Rồi ông ngâm nga bài tự dịch thơ:          Mười năm kháng chiến quả công phu           cách tân liền ngay hóa lũ thù           Oan này chừng có ai hay thấu           Chỉ có cha già ở tít!     Những lần đọc thơ đó chỉ có mực, không chỉ là kẻ xáp tuyệt đối mà còn là kẻ tri âm. Rồi những điều "mục sở thị", cùng những lời thơ Cảm hoài nghĩ cảnh bể dâu đã qua và thói thường trước mắt bằng giọng run rẩy thiếu dinh dưỡng mà thừa mộng ảo thực tâm của ông chủ giúp mực được biết nhiều nỗi khổ nhục của gia chủ không kém bị oan sai: vợ chồng ông phải tần tảo kiếm ăn từng bữa, trong khi đó, thuế nông chỉ có ba tạ hai thì bị đánh lên năm tạ; thóc già nộp thuế bị chê non nắng, bắt đem ra phơi lại; thiếu hai lạng cũng bị bắt lấy đủ, đành cho con hơ hải chạy về nhà lấy hai lạng nếp dành Tết nộp cho xong chuyện... Những ngày giáp hạt cả nhà ông méo mặt với bảy miệng ăn, chạy vạy xa gần hút chết... Nhưng sau những muộn phiền, lo âu, thở than, lòng ông bao giờ cũng lượng cả bao dong, vẫn "Ơn Đảng, Bác trước nay là thế/ Như trời bể xiết kể cho cùng". Ông tự khuyên mình và khuyên người "Chớ đem lòng oán cừu", mà trái lại, "Sao bằng đoàn kết tương lân vui vầy". Mực cảm nhận hết được điều đó qua sự trìu mến bi cảm của chủ đối với mình. Mấy đứa trẻ nhà chủ cũng yêu quý mực, coi mực như một thành viên khắn khít của cái gia đình cập kênh về sinh mệnh chính trị và kế sinh nhai song tròn đầy tình thương và đầy ắp ý thức giáo dục cổ truyền. Chó khôn không chê chủ nghèo. Lẽ thường là thế. Nhưng mực còn tự hào là đã được sống trong một ngôi nhà có ông chủ mang khí phách nhà nho cao khiết, như ông từng độc thoại giữa nỗi uất hận:          Chỉ muốn nuôi dân luống chờ đợi           Cứu dân, trừ bạo chẳng tơ mơ           Di xú, di hương...thây những kẻ           Ta rồi để lại mấy vần thơ...     Tiếc thay, trong một đợt đói dài sau đợt oan sai, khi đến cả thóc ranh, thóc kẹ, thóc gằn cũng chẳng còn một hạt trong nhà, con lợn nhắt phải đem cân bán, thì mực ta cũng lả dần đi vì đói, rồi ốm chết. Mực đựơc đầu thai vào một gia đình cốt cán bần cố nông...     Thông như sực thức giấc mộng Kê vàng. Mới đó mà đã hơn một Hoa Giáp! Hóa ra, kiếp trước của ông là một con chó mực nghèo và xáp tại chính làng quê chôn nhau. Mắt ông bỗng cay sè, tâm hồn chấn động. Không phải vì một mối cảm động nào. Không phải vì sự nhục nhã. Không phải vì nỗi thương xót cho thân phận mình hay thân phận những người chủ tốt bụng... Đúng hơn, chính là bởi ắt những cái đó nhào trộn dữ dội trong chiếc cối xay thời gian không phân biệt quá cố, vị lai, hiện tại. Cũng chính từ chiếc cối xay chẳng rõ ai đã phát minh ra này, ông đã vô tình đúc rút được bài học nhân sinh cay đắng: sự sát cũng có khi trở thành trò cười cho thiên hạ, tệ hơn, hóa ra vô nghĩa. tuy vậy, sự kề gần như không pha trộn, lai tạp, đúng hơn là không suy xét của một con chó giữ nhà tựa như một tấm gương thanh khiết giúp nó nhận rõ sao là sự bất công, sự tương phản trong cái làng nó sống: giữa khi có những người như ông chủ ôm ấp bao điều tốt đẹp cho đồng loại, từng đổ máu cho đại nghiệp quốc gia mà luôn luôn túng thiếu nợ nần, thì lại có không ít kẻ chỉ to mồm hô khẩu hiệu, nhơn nhơn vu khống và vơ vét nhanh như chảo chớp, trong nhà lúc nào cũng thịt thà bánh trái ê hề. Con cháu họ mặt mày hý hửng, tươi tắn, khôn ngoan, không như lũ con của người thực tâm ôm bồ chữ Thánh hiền và mớ lý tưởng cao siêu này, lúc nào cũng ngơ ngác vụng dại như cọng sắn khô, xanh mướt như tàu lá... Thế rồi, như một thứ bản năng dần nâng lên thành triết lý não lòng, Thông đã hoàn toàn sống trong ký ức lộn ngược của kiếp trước. Ông đã dần biết cách tạo ra hai mặt, ba mặt, thậm chí bốn mặt của Lòng áp, ngoại giả, còn biết lấy sự sát của con chó để lợi dụng, làm chiêu bài hữu hiệu trong nhiều cảnh huống. Gió chiều nào theo chiều ấy chỉ là lối sống quê kệch! áp theo kiểu bám đuôi voi hít bã mía cũng cổ lỗ rồi! Và đầu thai ở kiếp người, một con chó lên đẳng cấp Người cần biến sự xáp hóa ra một thứ nghệ thuật trác tuyệt, thế mới bõ làm kiếp người... Đó là những tiếng thầm thĩ, đúng hơn, những lời kêu gào tự đáy sâu tiềm thức suốt một thế cục túc trực tâm niệm "quyền lực là mặt trận" của Thông.    Thời đại học, Thông đã phát huy được tối đa lòng xáp và bản năng đánh hơi của loài chó bằng việc hăng hái dự vào đội Thanh niên Cờ đỏ: Thông luôn được nêu gương thành tích tóm được quả tang những đôi trai gái sinh viên ôm hôn nhau ở xó tối, bụi cây; đặc biệt là sự thính nhạy phát hiện ra những bài thơ, câu thơ "có vấn đề" chép tay hoặc truyền tai, các tác phẩm văn chương hay chính trị "ngoài luồng" không được đưa vào giáo trình chính thống để cung cúc báo cáo đều đặn lên chi bộ lớp, đảng bộ khoa - trường. Chó vốn không có khả năng diễn xuất; con người cũng chỉ số ít có được khả năng này, nhưng Thông thì được trời thương, ban cho trọn vẹn. Khi có bạn học bị kiểm điểm lên bờ xuống ruộng, rồi bị đuổi khỏi khoa vì tội lưu trữ, quảng bá văn học nghệ thuật phản động bôi nhọ chế độ, chính Thông là người độc nhất vô nhị trong cuộc gặp chia tay ôm chầm lấy người bị anh ta hại mà khóc nhưng nhức. Khóc thực, chứ không cần đến Glysêrin tạo nước mắt giả mà anh bạn đạo diễn của Thông sau này hay dùng tới (để cho khuôn mặt khi khóc đỡ lệch lạc phản cảm trong ống kính!). Thông còn biết cách thông tõ lòng kề và năng khiếu diễn kịch trước cả các chị nấu bếp, khiến bao giờ anh ta cũng được dành riêng một miếng cơm cháy chảo gang to đùng - niềm ước mơ của phần đông thanh niên sinh viên cái thời mà họ phải cố thực hiện tốc độ ăn tập thể bát/giây để khỏi xỉu vì đói trên giảng đường.     Sau đó, Thông được cử đi tập sự sinh tại một trường đại học danh giá nước ngoài, nhờ "những thành tích xuất sắc" mà chỉ ban lãnh đạo nhà trường nội địa mới đánh giá được hết tầm quan yếu của chúng. thời kì này, Thông bắt đầu làm thơ, như một hành động tự thưởng, hơn thế, một chuyện xả hơi. Xả hơi sau những cuộc mua bán điểm, và chạy chợ như hầu hết các lưu học trò Việt để mong có đôi tệp Đôla gài lưng phòng bị. Nhưng khác với những "bộ đội"(1) Việt thường ngày ở các chợ hàng hóa trời Tây, Thông còn để ý "đào công sự" cho sân sau, chuẩn bị chu đáo cho những cuộc "nhảy dù" vào thế giới quyền lực sau này khi có nhịp. Và cũng không giống các thi sĩ khác, thơ ca đối với Thông thực ra chỉ là một phương tiện lăng-xê tên tuổi tốt nhất, và tạo điều kiện lý tưởng đánh vào tung thâm lãnh địa của những kẻ chuyên gây gổ rối rắm trong những "vấn đề mẫn cảm". Nhưng chỉ cần ông "hắt xì hơi" ra một bài thơ, hay chỉ một ý thơ nào đó là đã có một vài nhà phê bình có số má săn đón để viết lời bình, rồi sao đàn em, nhà doanh nghiệp xoắn xuýt lấy làm vinh hạnh được tài trợ in thơ, được tổ chức trình diễn thơ - nhạc thật hoành tráng cho ông ở những nơi mà các nhà thơ, nhạc sĩ thứ thiệt còn lâu mới dám mơ tới. Có người đang nài gạ xin được làm phim truyện nhiều tập về cuộc đời của ông, với tư cách là một nhà văn hóa thời đổi mới có đóng góp nhiều cho giang san...    Và sau bao cuộc chinh phạt tận tụy thậm chí "bảo hoàng hơn vua" vì sự nghiệp làm trong lành tư tưởng tầng lớp, Thông đã đựơc hưởng hồ hết những gì mà tiền tài danh vọng đã mời gọi, hẹn: biệt thự, xe Lesus, những chuyến công du - hội thảo xuyên châu Âu, châu Á, hàm giáo sư, bằng tấn sĩ, và lũ đàn em giáp đang mở chiến dịch để Thông sẽ có cả danh hiệu Nghệ sĩ quần chúng nữa. tuồng như mọi chuyện đều hanh thông, trót lọt, mọi con đường tới đích đang rộng mở với Thông.     Nhưng, ở đời ai học được chữ ngờ!    Trong những ngày cả từng lớp tựa một cơn bão từ lớn trữ hàng triệu nỗi lo lắng, sợ hãi, hậm hực, căm giận trước thảm cảnh cá chết biển chết khắp miền Trung, có một nhà báo trẻ đứng ra cùng một nhóm các nhà báo, kỹ sư, luật sư, MC, nghệ sĩ trẻ dựng lên cái gọi là "Diễn đàn tìm sự thực cá chết". Đúng là một lũ ngựa non háu đá, thích chơi trèo tự khẳng định mình mà làm tổn hại lợi ích nhà nước một cách khủng khiếp mà chúng không hề biết! Nhưng trước khi tìm ra được chút xíu sự thật mà nhiều người đang chờ mong thì chúng bay cần phải được một bài học về sự lễ phép, thậm chí sẽ phải lảo đảo suốt đời vì đã không tuân thủ đạo đức nghề nghiệp giữa lúc vận mệnh nhà nước treo đầu đẳng! Thông bí mật chỉ đạo mở chiến dịch để truy quét, hạ bệ bọn trẻ dám liều mạng vuốt râu hùm kia. Đó là nghề gia tư thành thục của Thông. tất nhiên, ông chẳng ra mặt. Chỉ cần ông vạch ra vài cái ý căn bản là sẽ có lâu lắc răm rắp thực hiện một cách bài bản, có hệ thống lý luận vững chãi, nói chung là có học thức, trên cơ sở thả hỏa mù bằng quờ những gì là mode thời thượng: phản biện với ngụy biện, tự do với dân chủ, tương tác truyền thông với hiệu ứng cánh bướm... Chỉ sau hai ngày, một thời kì hoả tiễn trong cái xứ sở cái gì cũng chậm như rùa, một chiến dịch như thế đã được tung ra trên khắp các dụng cụ thông báo đại chúng. Ông chỉ cần ngồi nhà bật laptop, nhắm nháp ly Napoleon thượng thặng mà đắc chí rung đùi, vuốt cằm (tiếc là Thông chẳng có sợi râu nào!).Bỗng có một Status đập vào mắt Thông: "Này, ông Lý Thông! Chúng tôi biết là trong chiến dịch tối dạ này, ông là người đứng sau múa gậy chỉ đạo. Chính ông và cả gia đình ông cũng đang bị đe dọa bởi một cái chết từ từ, thầm lặng nhưng khốc liệt đang treo trên đầu dân tộc này, thế mà sao ông chưa tỉnh ngộ, còn giơ bàn tay dính máu để đàn áp những thanh niên yêu nước thực sự, bằng chữ nghĩa cũng nhơ bẩn như tâm hồn ông? Thất vọng về ông quá! Đau xót cho những người có quyền lực như ông quá!"    Thông ném mạnh cái ly xuống đất, gầm lên, song tiếng gầm lại có gì the thé, tồi tội, đáng thương, tựa tiếng sủa của một con chó cưng quý tộc chỉ quen được vuốt ve chứ chưa bị mắng mỏ hoặc roi vọt bao giờ. Thông lập bập mở di động, rồi gào cho một đàn em luôn túc trực chờ lệnh ông: "Mày... Mày... Truy tìm ngay cái fây-búc có nic-nêm NTL! Nhanh... lên!"    Chỉ mấy ngày sau, Stt đó đã tràn ngập thế giới phẳng, và chiến dịch lịch sử do Thông khởi xướng, chỉ đạo mang danh mới của đám đông là "Chiến dịch Lý Thông". tiếng tăm ông nổi như cồn, và "đá" ném vào cái tăm tiếng ấy nếu quy thành lượng vật chất chắc xây đủ mấy cái lâu đài!    Yến, con gái út của Thông đang chuẩn bị thi tốt nghiệp phổ thông trung học. Cô bé bị hành tội khốn khổ trước những cái nhìn khinh thị, chế diễu, và những lời xì xầm của bạn bè: "Này, bộ phim Lý Thông cướp công và hãm hại Thạch Sanh đời mới bao giờ lên sóng nhỉ?" - "Xem nào, công chúa của kẻ sắp biến thành bọ hung vì hãm hại người vô tội có gì khác người không" - "Cạch nó ra nhé, kẻo mang vạ vào thân. Bố nó là kẻ gắp lửa bỏ tay người đấy" -  "Ô, thế ra lớp mình cũng có hậu duệ của Gia Ve và Lý Thông cơ à?"... Bọn trẻ thời nay, dù có bị "bịt mắt bắt dê" để nhồi sọ bao điều ngớ ngẩn, hay bị lôi cuốn bằng đống trò kiểu "ý thức thể dục" của Nguyễn Công Hoan, cũng đã bắt đầu biết quan tâm đến thời cuộc theo cách cốt lõi và chân thực nhất có thể - chứ không chỉ theo định hướng của ông thầy và cha mẹ nữa.     Nhưng bọn trẻ của cái lớp 12A đó không ngờ nổi rằng, cùng với dư luận từng lớp, chúng sẽ vô tình phạm một tội ác: đẩy Yến đến cái chết tức tưởi, thảm thương. Cô bé chịu đựng sao nổi hàng trăm ngàn mũi dùi chĩa vào cha mình, và cũng không thể nào chấp nhận nổi cha mình đã là kẻ đốn mạt như thế. Em tìm đến sự giải thoát tiêu cực như hồ hết những người có lòng tự trọng song yếu đuối và bất lực. Ước nguyện cuối cùng của em vỏn vẹn: "ba má tha lỗi cho con. Con là đứa con bất hiếu. Song con chẳng thể chịu đựng nổi nữa. Bố đã làm gì mà để cả từng lớp khinh ghét, phỉ nhổ như thế? Con tin là bố có lý do chính đáng của mình. Nhưng bằng trí óc non nớt, con lại nhận thấy những người lên án bố có lý - cái lý cấp thiết cho cộng đồng. Mong bố thực sự nghĩ tới bọn trẻ chúng con... Vĩnh biệt cha mẹ. Khi con chết, ba má hãy đưa con về quê. Con gái bất hạnh của ba má ".    Mẹ Yến đã gần phát điên, gào thét, cào cấu chồng kịch liệt. Còn Thông đã dìm mình trong hàng lít rượu tây rượu ta để mong xoa dịu vết đâm tử thương vào tim mà ý thức tỉnh ngủ duy nhất còn nổi lên được phều phào: "trời, ta đã bị nghiệp báo thật rồi sao?".    Thông định rời con chó đá, ra mộ con gái để tâm tư, thành khẩn tạ lỗi với nó. Nhưng đôi chân ông đã trở nên nặng trịch. Không có giọt rượu nào nữa vào lúc này, sao tâm não ông lại quay cuồng, đảo điên. đột, ông cảm nhận được đến cùng tận cái mát lạnh của nền đất nện thân thuộc ngày xưa... hốt nhiên văng vẳng bên tai ông mấy câu hoài cảm của ông chủ cựu binh - nho gia: "Di xú, di hương... thây những kẻ/ Ta rồi để lại mấy vần thơ". Rồi, như hầu hết những người Việt thực thụ xưa - nay vào lúc liên quan hay nguy nan nhất, ông bất giác hướng tâm về đức Phật: "Cầu xin đức Phật, cho con trở lại làm kiếp con mực ngày xưa... Một kiếp bình an, dù bần hàn song thanh tú, không có thù hằn, đố kỵ, độc ác, với lòng sát nguyên thủy thuần phác nâng đỡ cho hồn người..."     Dường đấng cao xanh cũng hiểu được nguyện ước chân thành của Thông. Toàn thân ông dần hóa thành một con chó đá. Có điều, nó không mang dáng hình của con chó đá cũ, mà tạc vào không gian một con chó sói căng mình lên, nhe nanh uất hận tru về nơi hoang dã...    Các ngôi chùa Việt thường có hai tượng hộ pháp Kim cương Thiện - Ác. Tại một ngôi nhà cổ bình dị ở một làng quê vốn nghèo xác và đang kiệt quệ kia, giờ đây đang hiện diện hai con chó đá cũng mang biểu trưng Thiện - Ác như vậy để bảo vệ phần âm đức, và mong răn dạy cho người đời chút bài học về Tình thương và ơn nghĩa đang mất dần đi.